Ngày 24 / 10/ 2016: Tuyên truyền về bệnh thủy đậu và bệnh quai bị ở trẻ.
Bệnh thủy đậu là một bệnh rất nguy hiểm đối với mọi lứa tuổi. Bệnh thủy đậu ở trẻ em có khả năng lây lan nhanh, gây cảm giác khó chịu, ngứa.
Đối với những trẻ có sức đề kháng mạnh thì từ 7-10 ngày hết bệnh, bệnh thủy đậu là bệnh truyền nhiễm và nếu không điều trị kịp thời sẽ gây ra nhiều biến chứng: viêm phổi, viêm màng não, suy tim…
Dấu hiệu trẻ bị thủy đậu
Bệnh thủy đậu do siêu vi có tên Varicella Zoster Virus gây nên.
Biểu hiện đầu tiên ở trẻ mắc bệnh thủy đậu là trẻ bị sốt nhẹ, dấu hiệu để nhận biết rất dễ nhận ra, trẻ sẽ sốt nhẹ trong thời gian vài ngày uống thuốc mà không hết, cần đưa đi bác sĩ để kiểm tra xem trẻ bị sao, nếu bị thủy đậu sẽ có biện pháp điều trị, các bà mẹ cần giảm nhiệt độ cho trẻ, bằng cách chườm đá lạnh lên đầu trẻ, hoặc chườm nóng cho trẻ.
Sau đó trẻ sẽ bị nổi mẩn ngứa xuất hiện trên da, càng ngày càng nhiều. Thông thường sẽ lan từ thân đến tay chân, kèm theo ho, đau tức ngực khó chịu, sau 1-2 ngày các mụn nước chuyển sang trạng thái ghẻ lở, nếu không được phát hiện điều trị sớm sẽ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm.
Xử lý khi trẻ bị thủy đậu
- Cách ly trẻ:
Nếu trẻ bị mắc thủy đậu cần cách ly trẻ với những người khác. Tất cả đồ dùng cá nhân của trẻ như bát đũa, khăn mặt, bàn chải đánh răng,… phải dùng riêng.
- Vệ sinh chăm sóc trẻ:
Rửa tay và cắt ngắn móng tay cho trẻ. Trẻ nhỏ phải cho mang bao tay để tránh cào gãi vào các nốt thủy đậu.
Quan niệm kiêng nước, kiêng gió, không lau rửa cho trẻ bị thủy đậu là một sai lầm. Cần giữ vệ sinh cho trẻ bằng cách: Dùng nước ấm và khăn mềm thấm nước lau người cho trẻ, lau rửa nhẹ nhàng, tránh làm trợt các nốt thủy đậu. Sau đó dùng khăn xô thấm khô người và mặc quần áo cho trẻ.
Đối với khẩu phần ăn hàng ngày cần cho trẻ ăn uống đầy đủ dinh dưỡng, ăn thức ăn mềm, dễ tiêu hóa như cháo, súp, uống nhiều nước như nước lọc, nước canh và ăn thêm hoa quả bổ sung vitamin như cam, chuối...
- Đưa bé đi khám bác sĩ:
Khi trẻ có các biểu hiện của thủy đậu, cha mẹ cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để khám và có chỉ định điều trị phù hợp. Thông thường bác sĩ sẽ cho trẻ dùng thuốc hạ sốt (nếu trẻ sốt cao), kháng sinh ( để chống bội nhiễm) và thuốc bôi ngoài da. Việc dùng thuốc gì phụ thuộc vào cơ địa của từng trẻ và phải theo hướng dẫn của bác sĩ.
Trong quá trình điều trị và chăm trẻ vẫn cần chú ý theo dõi kỹ tình trạng của trẻ. Nếu thấy trẻ có dấu hiệu sốt cao không hạ nhiệt hoặc đã hạ sốt nhưng đột nhiên sốt cao trở lại; các mụn thủy đậu bị vỡ gây trầy xước da, cần đưa trẻ đến ngay cơ sở y tế để điều trị kịp thời.
Cách phòng ngừa bệnh:
Vaccine chống thủy đậu có hiệu quả cao và lâu dài, giúp cơ thể tạo kháng thể chống lại virus thủy đậu, được áp dụng đối với các đối tượng sau:
- Tất cả trẻ em từ 12-18 tháng tuổi được tiêm 1 lần.
- Trẻ em từ 19 tháng tuổi đến 13 tuổi chưa từng bị thủy đậu lần nào cũng tiêm 1 lần.
- Trẻ em trên 13 tuổi và người lớn chưa từng bị thủy đậu lần nào thì nên tiêm 2 lần, nhắc lại cách nhau từ 4-8 tuần.
Hiệu quả bảo vệ của vaccine thủy đậu có tác dụng lâu bền.
Nếu đã được chủng ngừa vaccine thủy đậu thì đại đa số từ 80-90% có khả năng phòng bệnh tuyệt đối. Tuy nhiên, cũng còn khoảng 10% còn lại là có thể bị thủy đậu sau khi tiêm chủng, nhưng các trường hợp này cũng chỉ bị nhẹ, với rất ít nốt đậu, khoảng dưới 50 nốt, và thường là không bị biến chứng.
Thời gian ủ bệnh của thủy đậu là từ 1-2 tuần sau khi tiếp xúc với bệnh nhân. Do đó, nếu một người chưa được tiêm phòng vaccine thủy đậu mà có tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu, trong vòng 3 ngày ta có thể tiêm ngừa thì vaccine có thể phát huy tác dụng bảo vệ ngay sau đó giúp phòng ngừa thủy đậu.
Bệnh quai bị: thường xuất hiện nhiều vào mùa xuân, hè. Đây là một bệnh nhẹ nhưng có thể gây những biến chứng nguy hiểm như viêm não, viêm màng não, đặc biệt là vô sinh. Hiện chưa có thuốc đặc trị. Bệnh có thể gặp ở tất cả mọi người nhưng thường gặp nhất ở trẻ em (trên 2 tuổi). Quai bị do virus gây nên và rất dễ lây qua tiếp xúc trực tiếp với nước bọt bệnh nhân. Thời gian ủ bệnh là 17-28 ngày.
Phần lớn bệnh nhân thấy khó chịu 1-2 ngày trước khi các triệu chứng xuất hiện.Bệnh nhân bị sốt cao (39-40 độ C) trong 3-4 ngày, chảy nước bọt và má sưng to (có thể sưng một bên mặt rồi lan sang bên kia hoặc sưng hai bên cùng một lúc), gây đau khi nuốt nước bọt. Sau đó, trẻ bị khô miệng vì các tuyến nước bọt đã ngừng hoạt động. Bệnh thường tự khỏi sau 1 tuần đến 10 ngày. Sau đó, bệnh nhân được miễn dịch suốt đời.
Nếu không giữ gìn tốt, bệnh có thể gây một số biến chứng nguy hiểm:
- Sưng tinh hoàn và buồng trứng, có thể dẫn đến vô sinh (dù là rất hiếm). Dấu hiệu chủ yếu là tinh hoàn sưng to, đau; nữ thấy tức bụng và đau khi sờ nắn.
- Viêm não hoặc viêm màng não: Thường xuất hiện sau 7-10 ngày với triệu chứng nhức đầu nghiêm trọng và cứng cổ.
Bệnh quai bị chủ yếu được điều trị tại nhà
Khi trẻ có các dấu hiệu quai bị, cha mẹ cần đưa trẻ đi khám để chẩn đoán xác định. Nếu đúng là quai bị, bác sĩ sẽ hướng dẫn cha mẹ cách chăm sóc trẻ ở nhà:
- Hạ nhiệt bằng cách lau mình trẻ bằng nước ấm (không được lau bằng nước lạnh). Có thể cho dùng Paracetamol để hạ sốt và giảm đau.
- Cho uống nhiều nước và súc miệng bằng nước muối sinh lý hay nước súc miệng có bán tại các hiệu thuốc nhằm chống khô miệng.
- Cho trẻ ăn loãng hoặc ăn bằng ống hút (nếu trẻ nuốt khó).
- Cho trẻ nằm trên giường với một chai nước nóng bọc trong khăn để áp vào bên má đau.
- Không được cho trẻ nô đùa chạy nhảy vì những hoạt động này rất dễ dẫn đến biến chứng ở tinh hoàn.
- Cần đưa trẻ tới bệnh viện ngay khi có các biểu hiện biến chứng.
Phòng tránh
- Cách ly bệnh nhân cho đến khi khỏi hẳn.
- Tiêm vắc xin phòng quai bị cho trẻ trên 1 tuổi: Chỉ cần tiêm một mũi duy nhất. Nếu trẻ mới tiêm phòng sởi thì phải đợi một tháng sau mới được tiêm phòng quai bị vì vacxin phòng quai bị đang được sử là vacxin phòng 3 bệnh (sởi, quai bị, rubela).
Cô y tế hướng dẫn học sinh rửa tay trước và sau khi ăn để phòng tránh lây bệnh truyền nhiễm:


